Cầm cố tài sản là gì ? Quy định về đối tượng, hình thức cầm cố tài sản ?

0
203

Cầm cố tài sản là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, theo đó bên có nghĩa vụ giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên có quyền và các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản (nếu có) để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự.

1. Khái niệm cầm cố tài sản

Trong quan hệ nghĩa vụ, để bảo đảm quyền và các lợi ích của người có quyền không bị xâm phạm thì các bên có thể thoả thuận xác lập một biện pháp bảo đảm đối vật, theo đó bên có nghĩa vụ phải giao cho người có quyền một tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền đã có sẵn một tài sản mà người có nghĩa vụ đã giao cho mình để khấu trừ phần nghĩa vụ chưa được thực hiện. Vì vậy, về phương diện ngữ nghĩa thì cầm cố tài sản là việc một người cầm trước (giữ sẵn) một tài sản của người khác để bảo đảm cho quyền, lợi ích của mình.

Việc cầm cố tài sản thường được đặt ra bên cạnh một hợp đồng dân sự nhưng cũng có thể được đặt ra bên cạnh một nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Bất luận ở trường hợp nào, cầm cố tài sản đều là kết quả của sự thoả thuận từ hai phía và với mục đích bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba phải bằng tài sản của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ đó trước bên có quyền.

Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Biện pháp cầm cố được quy định từ Điều 309 đến Điều 316 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Quy định chung về cầm cố tài sản

Người giữ tài sản thường là bên có quyền, bên nhận cầm cố; nếu tài sản cầm cố có đăng kí quyền sở hữu, thì các bên có thể thoả thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố hoặc giao cho người thứ ba giữ. Bên giữ tài sản cầm cố không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm cố; không được dùng tài sản cầm cố để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ khác; không được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu không được bên cầm cố đồng ý

Khi đã đến kì hạn thực hiện nghĩa vụ, bên cầm cố không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên có quyền, bên nhận cầm cố, thì tài sản cầm cố được xử lí theo phương thức do các bên thoả thuận hoặc được bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố sau khi trừ chi phí bảo quản, chỉ phí bán đấu giá tài sản.

Nếu bên cầm cố đã thực hiện đúng nghĩa vụ trong thời hạn thì bên nhận vật cầm cố phải trả lại cho bên cầm cố tài sản, các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản mà bên nhận cầm cố đã nhận, nếu tài sản cầm cố bị hư hỏng thì bên nhận cầm cố phải bồi thường thiệt hại.

Một tài sản có đăng kí quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, có thể được cầm cố để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự nếu có giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc có quy định khác của pháp luật.

3. Hình thức của cầm cố tài sản

Bộ luật dân sự năm 2015 không xác định rõ về hình thức của cầm cố tài sản, tuy nhiên theo quy định tại Điều 310 Bộ luật dân sự năm 2015 có thể hiểu nếu cầm cố tài sản là động sản thì có thể bằng hình thức miệng hoặc hình thức văn bản, nếu cầm cố bất động sản thì bắt buộc phải bằng văn bản.

Theo quy định tại điều luật trên thì văn bản cầm cố không nhất thiết phải công chứng hoặc chứng thực hoặc đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Thông thường, nếu tài sản cầm cố không phải đăng ký quyền sở hữu thì các bên không cần phải công chứng hoặc chứng thực. Tuy nhiên, để nâng cao độ an toàn pháp lý, các bên có thể thoả thuận cầm cố phải có công chứng hoặc chứng thực.

4. Đối tượng của cầm cố tài sản

Nếu như đối tượng của các biện pháp bảo đảm nói chung có thể bao gồm nhiều loại (tài sản, công việc phải thực hiện, uy tín) thì đối tượng của cầm cố tài sản chỉ có thể là tài sản. Vì vậy, đối tượng của cầm cố tài sản còn được gọi là tài sản cầm cố.

Mặc dù pháp luật hiện hành không có quy định về tài sản cầm cố nhưng xét theo bản chất của cầm cố là vệc bên cầm cố phải giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ nên tài sản cầm cố chỉ có thể là vật có sẵn vào thời điểm giao dịch cầm cố được xác lập. Giấy tờ có giá chỉ có thể là tài sản cầm cố nếu bản thân giấy tờ đó là một loại tài sản.

Vật dùng để cầm cố có thể là động sản hoặc bất động sản (nếu pháp luật có quy định) nhưng phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, vật cầm cố phải thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố

Khi người có nghĩa vụ giao tài sản cầm cố cho người có quyền, từ thời điểm đó họ bị hạn chế một số quyền năng đối vói tài sản của mình. Bên nhận cầm cố chiếm hữu tài sản đó đồng thời có quyền định đoạt nó khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên cầm cố không thực hiện hoặc thực hiện không đủng nghĩa vụ (nếu có thoả thuận).

Vì vậy, tài sản là đối tượng của cầm cố phải thuộc sở hữu của người cầm cố. Nếu tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người thì việc cầm cố tài sản đó phải được sự đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu.

Trong thực tế, việc xác định tài sản cầm cổ có thuộc sở hữu của người cầm cố hay không sẽ tương đối dễ dàng nếu tài sàn đó có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu. Nhưng sẽ là một việc làm hết sức khó khăn nếu đối tượng của cầm cố là một loại tài sản không có đăng kí quyền sở hữu. Trong những trường hợp này, người cầm cố phải hết sức thận trọng và chỉ nhận vật khi có đủ cơ sở để khẳng định chắc chắn vật đó thuộc sở hữu của người cầm cố thì quyền lợi của mình mới được bảo đảm.

Theo thông lệ, những tài sản không có đăng ký quyền sở hữu được suy đoán là thuộc sở hữu của người chiếm hữu thực tế. Mặt khác, để bên kia chấp nhận, người cầm cố bao giờ cũng khẳng định tài sản đó thuộc sở hữu của mình. Vì vậy, người nhận cầm cố khó có căn cứ để xác định tài sản đó có thuộc sở hữu của bên cầm cố hay không? Và vì thế, việc pháp luật quy định tài sản cầm cố phải thuộc sở hữu của bên cầm cố là một điều tương đối bất lợi đối với bên nhận cầm cố. Nếu tài sản không thuộc sở hữu của người cầm cố, dù đó là do người cầm cố lừa dối (chẳng hạn người mượn vật của người khác và nói dối là của mình để cầm cố) thì người nhận cầm cố vẫn là người trước tiên phải gánh chịu hậu quả. Nếu tài sản được thu hồi để giao về cho chủ sở hữu đích thực của nó thì người nhận cầm cố sẽ không còn gì để bảo đảm cho quyền lợi của mình nữa, không còn quyền ưu tiên trong việc thanh toán khoản nợ từ tài sản cầm cổ.

Tuy nhiên, nguyên tắc tài sản phải thuộc sở hữu của bên cầm cố được loại trừ trong trường hợp bên cầm cố là doanh nghiệp nhà nước. Các tài sản mà các doanh nghiệp nhà quản lý là tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là chủ sở hữu. Để các doanh nghiệp của mình có thể hoạt động bình thường trong việc thực hiện chức năng, mục đích của nó, I Nhà nước đã giao cho các doanh nghiệp này tài sản và quyền quản lí tài sản. Vì vậy, các doanh nghiệp nhà nước, dù không phải là chủ sở hữu đối với tài sản nhưng vẫn có thể dùng tài sản thuộc quyền quản lý của mình để cầm cố bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Thứ hai, vật cầm cố phải là vật được phép chuyển giao.

Khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp cầm cố đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ thì bên cầm cố được quyền bán tài sản cầm cố. Tuy nhiên, bên cầm cố chỉ có thể bán tài sản nếu tài sản đó là tài sản được phép chuyển giao trong giao dịch dân sự. Vì vậy, nếu tài sản cầm cố là tài sản mà pháp luật cấm giao dịch thì không chỉ giao dịch cầm cố đó vô hiệu mà người nhận cầm cố còn không thể xử lí được tài sản đó.

5. Chủ thể của cầm cổ tài sản

5.1 Bên cầm cố

Bên cầm cố là bên phải giao tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Thông thường, bên cầm cố là bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp cầm cố đó. Chẳng hạn, B giao tài sản của mình cho A giữ để vay tiền của A. Trong nhiều trường hợp khác người cầm cố có thể là người thứ ba. Người thứ ba cầm cố tài sản là người không thuộc các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm giao tài sản của mình cho bên có quyền để bảo đảm việc thực hiện nghĩạ vụ của bên có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ đó. Chẳng hạn, c giao tài sản của mình cho A để bảo đảm việc B trả khoản tiền mà B đã vay của A.

5.2 Bên nhận cầm cố

Bên nhận cầm cố là bên nhận tài sản từ bên cầm cố để bảo đảm cho quyền và lợi ích của mình trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đủ nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố bao giờ cũng là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp cầm cố đó.

6. Hiệu lực và thời hạn của cầm cố tài sản

Hợp đồng cầm cố có hiệu lực đối với các bên trong hợp đong từ thời điểm giao kết và có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố. Trong trường hợp tài sản cầm cố là bất động sản và việc cầm cố được đăng ký giao dịch bảo đảm thì có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

Thời hạn cầm cố tài sản do các bên thoả thuận. Nếu các bên không có thoả thuận thì thời hạn cầm cố tài sản được tính từ thời điểm bên cầm cố nhận tài sản cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố.